Một số vấn đề về sự biến đổi của xã hội hiện nay

Khái quát chung sự biến đổi của xã hội Việt Nam hiện nay. Nội dung này các bạn cần cập nhật thêm nhé…!

Hãy ủng hộ chúng tôi bằng cách đăng ký kênh Khoa học Ứng dụng, Study With Dung và mua những cuốn sách kỹ năng hữu ích, các sản phẩm các bạn cần nhé! Thank so much!

❤️ ĐĂNG KÝ KÊNH KHOA HỌC ỨNG DỤNG ĐỂ XEM VÀ TẢI NHỮNG BÀI GIẢNG MIẾN PHÍ TẠI ĐÂY: ĐĂNG KÝ

❤️ TẢI BÀI GIẢNG – Bài 1: Sự Hình thành phát triển của xã hội học:

TẢI BẢI GIẢNG XÃ HỘI HỌC: Bài 2. Đối tượng, cơ cấu, chức năng của xã hội học

❤️ TẢI BÀI GIẢNG: Bài 3. Những khái niệm chính của xã hội học

Biến Đổi Xã Hội | Nhân tố và điều kiện Biến đổi Xã hội | Xã hội học đại cương

– Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Á đã làm thay đổi bức tranh chính trị trên toàn cầu, làm thay đổi các quan hệ quốc tế, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các nước. Quan hệ giữa các nước thuộc hai phe chuyển thành quan hệ đa phương, đa cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Chủ nghĩa tư bản hiện đại còn tiếp tục điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có. Chủ nghĩa xã hội thế giới tạm lâm vào thoái trào, nhưng có điều kiện và khả năng để phục hồi và phát triển.

– Khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển.

– Quá trình quốc tế hóa, hiện đại hóa diễn ra một cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: phân công hợp tác quốc tế, thương mại dịch vụ, văn hóa, thông tin, môi trường… Quá trình quốc tế hóa có tác động hai chiều với các nước đang phát triển, một mặt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho những nước lạc hậu kém phát triển hay đang phát triển có thể phát triển được nhanh hơn, mặt khác lại gặp phải những khó khăn và bất lợi do sự cạnh tranh của các nước khác. Do đó, mỗi nước phải tìm ra con đường đi thích hợp cho dân tộc mình để không bị tụt hậu.

– Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan nhưng đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa tích cực, vừa tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.

– Vấn đề dân tộc vẫn được đặt ra với nội dung mới như: độc lập, chống can thiệp của nước ngoài, bình đẳng giữa các dân tộc, bản sắc dân tộc với tính thời đại, xu hướng tách khỏi liên minh cũ, hình thành liên minh mới… Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp liên tục diễn ra dưới nhiều hình thức, lúc hòa hoãn, lúc gay gắt.

– Cuộc đấu tranh giữa hòa bình và chiến tranh luôn diễn ra nhưng có những biểu hiện riêng tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh, rồi đến diễn biến hòa bình… có thể vẫn nổ ra ở nơi này hay nơi khác, tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử cụ thể, nhưng nhìn chung, xu thế hòa bình vẫn mạnh hơn chiến tranh và luôn có sự can thiệp của quốc tế vào nước này hay nước khác. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc thêm.

– Dân số là vấn đề nóng bỏng đang được đặt ra trên toàn cầu. Tình trạng dân số tăng quá nhanh, đặc biệt là ở các nước kém phát triển là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút và xuống cấp của nhiều lĩnh vực, nhiều mặt trong xã hội của chính quốc gia đó cũng như của cộng đồng quốc tế.

– Bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề bức thiết có tính chất toàn cầu. Ô nhiễm môi trường và mất cân bằng sinh thái, hậu quả của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp gắn liền với sự kém hiểu biết, vì lợi ích trước mắt hay cục bộ… đang là vấn đề nghiêm trọng không chỉ ở từng nước, mà còn mang tính quốc tế. Điều đó dẫn đến việc bảo vệ môi trường sinh thái trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi nước cũng như với toàn nhân loại.

BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

4. Biến đổi xã hội Việt Nam giai đoạn đổi mới

Trong 15 năm đổi mới, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội (1991 – 2000), dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã vượt qua mọi khó khăn, mọi thách thức và đã giành được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt.

* Về kinh tế và đời sống nhân dân:

Kinh tế đã phát triển nhanh và vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Trong 10 năm (1991 – 2000), tổng sản phẩm quốc nội tăng gấp 2 lần, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và năng lực sản xuất tăng hơn trước; đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Nổi bật là nông nghiệp đã phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế, xã hội. Từ chỗ thiếu lương thực, thiếu hàng tiêu dùng, nay ta đã dư thừa và xuất khẩu. Công nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, năng lực sản xuất những sản phẩm chủ yếu tăng khá. Các ngành dịch vụ vẫn tiếp tục phát triển, các cân đối chủ yếu của nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp như: quan hệ giữa tích lũy với tiêu dùng, cải tiến đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế đối ngoại…Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp ta đã chuyển dần sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; từ nền kinh tế chủ yếu chỉ có hai thành phần sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

* Về văn hóa – xã hội

Văn hóa xã hội có bước phát triển khá trên nhiều mặt như:

Chương trình Quốc gia giải quyết việc làm đã được triển khai có hiệu quả. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm. Các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp và xúc tiến việc làm đã hoạt động tích cực. Các chính sách thúc đẩy đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất đã tạo thêm nhiều việc làm mới. Bình quân, mỗi năm chúng ta đã giải quyết được việc làm cho khoảng hơn 1 triệu lao động, trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân và kinh tế hợp tác…

Công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ trên mọi miền của đất nước. Từ khi có chủ trương xóa đói giảm nghèo (1992) đến nay, Nhà nước đã đầu tư khoảng trên 21 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 20% năm 1995 xuống còn 11% năm 2000. Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta có chính sách bảo đảm xã hội, nâng mức lương tối thiểu, tăng phụ cấp hưu trí, người có công… làm cho mức sống của cán bộ công nhân viên chức, người về hưu, người có công… được nâng lên một bước.

Công tác văn hóa, thông tin, văn học nghệ thuật có nhiều đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Các cơ quan và phương tiện thông tin đại chúng, các đoàn nghệ thuật, các hãng, xưởng phim… đã tích cực tuyên truyền, cỗ vũ các nhân tố mới, đấu tranh chống các mặt tiêu cực, các tệ nạn xã hội, khơi dậy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chương trình đưa văn hóa về cơ sở, mở rộng diện phủ sóng, phát thanh và truyền hình được thực hiện có kết quả tốt. Tính đến hết năm 2000, sóng truyền hình đã phủ tới 85% và sóng phát thanh đã phủ tới 95% diện tích cả nước và đến nhiều nơi trên thế giới. Các cơ chế quản lý văn hóa, thông tin đã được đổi mới theo hướng xã hội hóa.

Công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình được triển khai tốt, với nhiều kết quả đáng kể. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,65% năm 1995 xuống còn 1,53% năm 2000. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình được tăng cường đáng kể. Năm 1998, Việt Nam đã được Liên hợp quốc tặng thưởng về công tác dân số.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, đặc biệt trong lĩnh vực y tế dự phòng. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38% năm 1995 xuống còn 33 – 34% năm 2000. Về cơ bản ta đã thanh toán được bệnh bại liệt và uốn ván sơ sinh. Các bệnh sốt rét, bướu cổ đã giảm gần 60% so với 1995. Chính sách bảo hiểm y tế, chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, người có công với cách mạng được triển khai ở nhiều nơi.

Công tác chăm sóc người có công, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được mở rộng và thu hút được mọi tầng lớp xã hội tham gia. Đến nay 100% các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã được các cơ quan, đơn vị, tổ chức nhận phụng dưỡng đến hết đời. Phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, lập sổ tiết kiệm cho các gia đình chính sách phát triển rộng khắp. Nhiều nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ trên cả nước được xây dựng và nâng cấp. Quỹ đền ơn đáp nghĩa được thành lập, các hoạt động từ thiện, cứu trợ giúp đỡ nhau lúc thiên tai, hoạn nạn được tổ chức kịp thời, sâu rộng.

Phong trào thể dục thể thao phát triển rộng rãi trong cả nước. Quốc phòng an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.

Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô học sinh tăng ở tất cả các bậc học, ngành học. Phong trào học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ và tin học phát triển nhanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường được tăng cường. Hệ thống các trường học ngoài công lập được hình thành và phát triển mạnh. Chất lượng giáo dục, đào tạo có chuyển biến bước đầu. Việc xã hội hóa giáo dục được triển khai mạnh mẽ. Đến hết năm 2000 có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở.

Khoa học công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Nhiều đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước, Bộ, tỉnh, thành phố… được triển khai và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, kinh tế, dịch vụ đã được nâng lên một bước. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được nâng lên rõ rệt, có khả năng tiếp thu và làm chủ nhiều công nghệ hiện đại.

Gia đình Việt Nam cũng có nhiều đổi mới: gia đình hiện đại (gia đình hạt nhân) có xu hướng tăng thay thế cho gia đình truyền thống. Chức năng của gia đình có sự biến đổi theo hướng tăng cường chức năng kinh tế, giảm chức năng giáo dục và “chuyển giao” dần cho xã hội (học nội trú, bán trú…). Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” ít ảnh hưởng hơn so với trước đây và quan hệ vợ chồng, con trai, con gái trong gia đình được bình đẳng hơn.